DẤU GẠCH NGANG (–), DẤU GẠCH NỐI (-): NHẬN DIỆN VÀ SỬ DỤNG
Tác giả: ỨNG QUỐC CHỈNH (NXB Đại học Sư phạm)
Gạch ngang và gạch nối tưởng như đã rõ ràng và không có gì phải bàn thêm. Tuy nhiên trong thực tế, vẫn còn nhiều lẫn lộn khi sử dụng, kể cả trong các xuất bản phẩm. Những nhầm lẫn đó đó do nhiều nguyên nhân: có thể do tác giả, do người nhập dữ liệu, do biên tập, do chế bản hoặc do diện tích nhỏ trong khi trình bày ở các sản phẩm quảng cáo,… Do vậy, những vấn đề về dấu gạch ngang và dấu gạch nối cần được phân tích lại, phân tích thêm và đưa ra hướng giải quyết hợp lí.
I. KHÁI NIỆM
1. Dấu gạch ngang
Theo Đại từ điển tiếng Việt (Nguyễn Như Ý chủ biên, trang 701, NXB Văn hóa – Thông tin, 1999): “Gạch ngang dt. Dấu (–), dài hơn gạch nối; thường dùng để tách riêng ra thành phần chú thích thêm trong câu; viết ghép một tổ hợp hai hay nhiều tên riêng, hai hay nhiều số cụ thể; đặt ở đầu dòng nhằm viết các phần liệt kê, các lời đồi thoại; còn gọi là Dấu gạch ngang”.
Một vài vấn đề nảy sinh và lưu ý: Không nhầm giữa dấu gạch ngang với đường gạch ngang (gạch thành một đường dài, ngang). Phân biệt dấu gạch ngang giữa (–) với dấu gạch ngang dưới (_). Có lẽ do dấu gạch ngang dưới ít được sử dụng trong thực tế nên người ta thường dùng dấu gạch ngang thay cho cách gọi đầy đủ là: dấu gạch ngang giữa. (?)
2. Dấu gạch nối
Theo Đại từ điển tiếng Việt, (Nguyễn Như Ý chủ biên, trang 701, NXB Văn hóa – Thông tin, 1999): “Gạch nối dt. Dấu (-), ngắn hơn gạch ngang; thường dùng để nối những thành tố đã được viết rời của từ đa tiết phiên âm; còn gọi là Dấu gạch nối”.
Cần chú ý phân biệt dấu gạch nối với dấu nối trong âm nhạc (không có chữ gạch) – Dấu nối – dấu nhạc có hình cung nối hai hay nhiều nốt cùng cao độ, cùng tên, chỉ sự kéo dài trường độ của một âm. Tiếp tục đọc →